Những phát triển về radar tại Hoa Kỳ Radar trong Chiến tranh thế giới thứ hai

Năm 1922, 2 kỹ sư A. Hoyt Taylor và Leo C. Young, khi đó thuộc Phòng thí nghiệm Vô tuyến Máy bay của Hải quân Hoa Kỳ, nhận thấy rằng một con tàu khi băng qua đường truyền của một đường truyền sóng vô tuyến tạo ra tín hiệu tắt dần trong và ngoài. Họ cho rằng điều này là do Hiệu ứng Doppler, và có thể sử dụng hiện tượng này để theo dõi các con tàu đi qua, nhưng báo cáo của họ không gây được chú ý. Năm 1930, Lawrence A. Hyland, làm việc cùng với Taylor tại Naval Research Laboratory (NRL) cũng phát hiện thấy hiện tượng tương tự khi một chiếc máy bay bay qua. Sau đó Hyland, Taylor, và Young đã đăng ký bằng sáng chế (U.S. No. 1981884, 1934) về "Hệ thống phát hiện vật thể bằng sóng radio". Công việc phát triển radar sau đó được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu do Robert M. Page đứng đầu. Tháng 12 năm 1934, radar do nhóm nghiên cứu chế tạo đã phát hiện được máy bay ở cách 1 dặm.

Báo cáo năm 1930 của Taylor đã được chuyển cho Phòng thí nghiệm tín hiệu (SCL). Tại đây, William R. Blair cũng đang phát triển thiết bị có khả năng phát hiện máy bay đối phương bằng bức xạ nhiệt và âm thanh. Sau khi Page phát triển thành công bộ truyền tín hiệu xung, SCL đã tiếp tục phát triển theo hướng này. Năm 1936, Paul E. Watson phát triển hệ thống radar xung, mà đã phát hiện thành công máy bay tại thành phố New York ở cự ly lên tới 7 dặm. Năm 1938, hệ thống này đã được cải tiến trở thành hệ thống có tên gọi Radio Position Finding (RPF), với mã định danh SCR-268, (Signal Corps Radio). Nó hoạt động ở tần số 200 MHz bước sóng 1,5 m, công suất tối đa 7 KW. Tín hiệu thu được sử dụng để xác định hướng mục tiêu, từ đó giúp chiếu đèn phòng không.

Tại châu Âu, cuộc chiến với Đức đã làm suy yếu nguồn lực của Anh. Do đó, người Anh đã chia sẻ công nghệ cho người Mỹ trong sứ mệnh Tizard để hy vọng có thể dựa vào sức sản xuất rất lớn của Mỹ.

Các nhà khoa học người Anh khi sang Mỹ đã rất bất ngờ vì Hải quân Mỹ cũng có hệ thống radar CXAM, có công nghệ và khả năng tương đương với hệ thống radar Chain Home. Mặc dù Mỹ đã phát triển công nghệ radar độc lập với Anh, tuy nhiên người Mỹ vẫn còn thiếu một vài công nghệ quan trọng, nhất là thiếu khả năng tích hợp radar vào mạng lưới phòng không.[5]

Nhờ có chương trình Tizard, Mỹ đã có bước tiến quan trọng trong phát triển radar. Mặc dù Mỹ đã có khả năng chế tạo bộ phát sóng radio bước sóng 10cm nhưng người Mỹ thiếu một bộ phát sóng radio công suất cao. Magnetron khoang chính là câu trả lời mà các nhà khoa học Mỹ tìm kiếm, dẫn đến sự ra đời của Phòng thí nghiệm bức xạ trực thuộc MIT. Phòng thí nghiệm này chịu trách nhiệm phát triển hầu hết các radar bước sóng centimet của Mỹ.

Hai phòng thí nghiệm khác của Mỹ cũng tham gia phát triển radar là Radio Research Laboratory (RRL), thành lập gần Đại học Harvard. Phòng thí nghiệm này tập trung vào nghiên cứu các biện pháp đối phó điện tử với radar đối phương. Viện còn lại là Combined Research Group (CRG) đặt tại trụ sở Phòng thí nghiệm Hải quân NRL.

Liên Xô

Liên Xô và Đức tấn công Ba Lan vào tháng 9/1939 theo Molotov–Ribbentrop Pact; Liên Xô tấn công Phần Lan vào tháng 11 năm 1939. Tháng 6 năm 1941, Đức phá vỡ hiệp ước không xâm phạm với Liên Xô và tấn công Liên Xô. Mặc dù Liên Xô có những nhà khoa học và kỹ sư xuất sắc đã nghiên cứu nền tảng của radar từ sớm, và cũng đạt được những thành tựu về magnetron, nhưng Liên Xô đã bước vào cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại mà không có trong tay một hệ thống radar hoàn chỉnh.[10]

Những nghiên cứu trước chiến tranh

The USSR military forces were the Raboche-Krest'yanskaya Krasnaya Armiya (RKKA, the Workers' and Peasants' Red Army), the Raboche-Krest'yansky Krasny Flot (RKKF, the Workers' and Peasants' Red Fleet), and the Voyenno-Vozdushnye Sily (VVS, Soviet Air Forces).

Đến giữa những năm 1930, Không quân Đức đã có đủ khả năng để thâm nhập sâu vào trong lãnh thổ Liên Xô. Tuy nhiên các khẩu đội phòng không phải quan sát máy bay bằng mắt. Đối với trường hợp Không quân Đức ném bom Đêm, Glavnoye artilleriyskoye upravleniye (GAU, Cục pháo binh), phát triển một hệ thống nghe để phát hiện sớm các máy bay đối phương, sau đó sẽ rọi đèn phòng không về hướng máy bay đối phương. Đây cũng là cách mà lực lượng phòng không Liên Xô sử dụng để phát hiện máy bay địch trong ngày nhiều mây và từ các khoảng cách xa; để khắc phục điều này, các nghiên cứu đã được bắt đầu về việc phát hiện máy bay địch bằng radar. Trung tướng M.M. Lobanov thuộc GAU chịu trách nhiệm phát triển lĩnh vực này, và ông đã ghi chép kỹ lưỡng hoạt động này sau đó.[11]

Tại Leningrad

Phần lớn những nghiên cứu về sử dụng radar phát hiện máy bay địch thời kỳ đầu được tiến hành tại Leningrad, Leningradskii Elektrofizicheskii Institut, (Leningrad Electro-Physics Institute, LEPI), dưới sự lãnh đạo của nhà vật lý hàng đầu của Liên Xô là Abram F. Ioffe. LEPI tập trung vào hệ thống cảnh báo sớm bằng sóng radio.

Trong khi GAU quan tâm tới việc sử dụng radar để phát hiện mục tiêu, thì Lực lượng phòng không Liên Xô Voiska Protivo-vozdushnoi oborony (PVO) lại quan tâm tới việc xác địch cự ly của máy bay địch. Pavel K. Oshchepkov, nhân viên của PVO tại Moscow, cho rằng để xác định chính xác cự ly của mục tiêu bằng radio thì sóng radio phải có dạng xung. Oshchepkov đã được chuyển tới Leningrad để đứng đầu Viện thiết kế đặc biệt chuyên phát triển radar.

Tại Leningrad, nhóm thiết kế của Oshchepkov đã phát triển một hệ thống định vị vô tuyến thử nghiệm dạng xung hoạt động ở bước sóng 4 m (75 MHz). Thiết bị có công suất tối đa là 1 kW và xung radio có độ dài 10-μs; trạm phát sóng và trạm thu sóng được đặt riêng rẽ. Tháng 4 năm 1937, thử nghiệm đã cho kết quả bắt được mục tiêu bay từ khoảng cách 17 km, độ cao 1,5 km. Tuy nhiên hệ thống không có khả năng đo cự ly. Mặc dù hệ thống radar đầu tiên của Liên Xô chưa có khả năng xác định cự ly của mục tiêu nhưng Oshchepkov được mệnh danh là cha đẻ của radar ở Liên Xô.[12]

Xe thu sóng của RUS–1

Năm 1935, LEPI được đổi tên thành Nauchno-issledovatel institut-9 (NII-9, Viện nghiên cứu đặc biệt số 9), trực thuộc GAU. Với M. A. Bonch-Bruevich là Giám đốc khoa học, công việc nghiên cứu radar vẫn được tiếp tục. Viện đã phát triển hai nguyên mẫu thử nghiệm đầy hứa hẹn. Radar VHF Bistro và radar vi sóng Burya (Bão). Chúng được tích hợp trên xe tải cơ động, và về sau được mang mã định danh RUS-1 (РУС-1). Hệ thống phát sóng được đặt trên xe đầu kéo, hoạt động ở bước sóng 4,7 m (64 MHz) cùng với 2 xe tải mang hệ thống thu sóng.

Tháng 6 năm 1937, công việc nghiên cứu radar tại Leningrad bị gián đoạn do cuộc Đại thanh trừng của Joseph Stalin, dẫn đến nhiều nhà khoa học bị bắt giam và xử bắn.[13] Oshchepkov bị kết án tù 10 năm và bị đưa vào trại Gulag. NII-9 cũng bị nhắm đến nhưng cuối cùng đã thoát khỏi cuộc thanh trừng. Kết quả cuộc thanh trừng của Stalin đã làm chậm tiến độ nghiên cứu radar đi hơn 1 năm.

RUS-1 đã được thử nghiệm và đưa vào chế tạo từ năm 1939, bắt đầu đưa vào trang bị một lượng nhỏ từ năm 1940, nó trở thành hệ thống radar đầu tiên đưa vào vận hành trong Hồng quân.

Năm 1940, LEPI tiếp tục phát triển thế hệ radar tiếp theo là Redut với công suất tối đa đạt 50-kW và sóng radio xung có độ dài mỗi xung là 10-μs.

Hệ thống thu tín hiệu RUS–2.

Radar mới được tích hợp màn hiện sóng, giúp hiển thị thông tin về cự ly đến mục tiêu. Tháng 7 năm 1940, hệ thống radar mang định danh mới là RUS-2 (РУС-2). Nhà máy điện tử Svetlana tại Leningrad được giao chế tạo 15 hệ thống radar mới.

RUS-2 có công suất xung phát ra gần 40 kW bước sóng 4 m (75 MHz). Radar được đặt trên xe tải, với 7 phần tử anten Yagi-Uda đặt ở độ cao 5 mét so với trần xe. Cự ly phát hiện mục tiêu bay ở độ cao thấp 500 m là từ 10 đến 30 km, và từ 25 đến 100 km đối với mục tiêu bay cao. Sai số khoảng 1,5 km về cự ly và 7 độ về góc phương vị.

Tại Kharkov

Tại Kharkov, các nhà khoa học cũng tổ chức nghiên cứu về radar tại Phòng thí nghiệm dao động điện từ trường-Laboratory of Electromagnetic Oscillations (LEMO) dưới sự lãnh đạo của Abram A. Slutskin.

Tại LEMO, các nhà khoa học tập trung chủ yếu vào nghiên cứu magnetron. Năm 1934, đội ngũ các nhà khoa học đứng đầu là Aleksandr Y. Usikov đã phát triển một magnetron có khả năng phát xung tín hiệu có bước sóng từ 80 đến 20 cm (0,37 đến 1,5 GHz), với công suất từ 30 đến 100 W. Semion Y. Braude chế tạo magnetron có công suất 17 kW đạt hiệu suất 55 % bước sóng 80 cm (370 MHz), có khả năng thay đổi bước sóng khoảng 30%, dải tần số từ 260 MHz đến 480 MHz (ranh giới giữa VHFUHF).

Năm 1937, NIIIS-KA (Viện Nghiên cứu khoa học của tín hiệu) giao cho LEMO phát triển một hệ thống định vị vô tuyến xung để phát hiện máy bay. Dự án có tên mã là Zenit (một đội bóng nổi tiếng lúc bấy giờ) và do Slutskin đứng đầu. Máy phát do Usikov đảm nhiệm. Thiết bị này sử dụng một magnetron bước sóng 60 cm (500 MHz) phát xung ở thời gian 7–10 μs và cung cấp công suất xung 3 kW, sau đó tăng lên gần 10 kW.[14]

Zenit được thử nghiệm vào tháng 10 năm 1938. Trong đó, một máy bay ném bom hạng trung đã được phát hiện ở tầm 3 km. Sau khi những cải tiến được thực hiện, một cuộc thử nghiệm tiếp tục vào tháng 9 năm 1940. Nó cho thấy rằng ba tọa độ (tầm bay, độ cao và phương vị) của một chiếc máy bay bay ở độ cao từ 4.000 đến 7.000 mét có thể được xác định ở khoảng cách lên tới 25 km, nhưng với độ chính xác kém. Ngoài ra, với các ăng-ten hướng ở một góc thấp, nhiễu từ mặt đất ảnh hưởng nhiều đến radar.

Công việc tại LEMO tiếp tục trên Zenit , chuyển đổi nó thành một hệ thống ăng-ten đơn được chỉ định là Rubin. Tuy nhiên, nỗ lực này đã bị gián đoạn bởi cuộc xâm lược Liên Xô của Đức vào tháng 6 năm 1941. Trong một thời gian ngắn, tất cả các ngành công nghiệp quan trọng và các hoạt động khác ở Kharkov đã được lệnh sơ tán về phía Đông.

Thời chiến

Khi Chiến tranh vệ quốc vĩ đại của Liên Xô diễn ra, các cơ sở nghiên cứu radar đã được di chuyển về phía Đông.

Một số hệ thống radar khác nhau đã được Liên Xô sản xuất tại các cơ sở di dời trong chiến tranh, cùng khoảng 2.600 bộ radar các loại theo chương trình Lend-Lease.[15]

Radar mặt đất

Phần này không có nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp cải thiện Phần bằng cách bổ sung các nguồn tham khảo đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì bạn có thể chép nguồn tham khảo bên đó sang đây. (December 2014)

Nhà máy điện tử Sveltana tại Leningrad đã chế tạo được 45 hệ thống radar 45 RUS-1. Chúng đã được triển khai dọc theo biên giới phía Tây và ở Viễn Đông.

Khi các cuộc tấn công bằng đường không vào Leningrad bắt đầu, radar RUS-2 được lắp ráp tại địa điểm thử nghiệm Toksovo đã được đưa vào hoạt động chiến thuật, cung cấp cảnh báo sớm về đội hình của Luftwaffe ( Không quân Đức). Với tầm phát hiện lên đến 100 km, Radar đã cung cấp thông tin kịp thời cho các mạng lưới phòng thủ dân sự và máy bay chiến đấu. Điều này đã thu hút được sự chú ý của các nhà chức trách, những người trước đây tỏ ra không mấy quan tâm đến thiết bị định vị vô tuyến.

Một hệ thống radar RUS-2 được vận hành bởi các nhân viên của viện LPTI đã đi vào hoạt động ngày 22 tháng 7, và đã phát hiện được vụ thâm nhập của 200 máy bay ném bom Đức khi chúng còn cách 100 km. Đây là lần không kích thủ đô Moskva đầu tiên của phát xít Đức.

Một số máy phát và máy thu của hệ thống radar RUS-2 đã được triển khai cố định xung quanh Moskva. Được định danh là RUS-2S hay P2 Pegmatit, những radar này có anten Yagi được gắn trên tháp cao 20 mét và có góc quét 270 độ. Để bổ sung, tháng 1 năm 1942, nhà máy số 339 tại Moscow trở thành nhà máy đầu tiên tại Liên Xô chế tạo radar. Trong năm 1942, nhà máy đã chế tạo và lắp đặt 53 hệ thống RUS-2S xung quanh Moskva và các vị trí trọng yếu khác trên lãnh thổ Liên Xô.

Nhà máy 339 có một đội ngũ cán bộ nghiên cứu và kỹ thuật xuất sắc; cơ quan này trước đó đã được tách ra về mặt hành chính và được chỉ định là Viện Khoa học Công nghiệp Vô tuyến điện số 20 (NII-20). Victor V. Tikhomirov, người tiên phong trong lĩnh vực radar hàng không của Liên Xô, là Giám đốc Kỹ thuật (Sau đó, Viện Nghiên cứu Khoa học Thiết kế Dụng cụ Tikhomirov đã được đặt tên để vinh danh ông). Nhà máy 339 và viện nghiên cứu NII-20 của nó đã trở thành cơ sở chính trong phát triển radar của Liên Xô trong suốt thời gian chiến tranh.

Ngay từ những ngày đầu phát triển và triển khai hệ thống radar, đã có câu hỏi được đặt ra: Làm thế nào để phân biệt máy bay mục tiêu là bạn hay thù ở một khoảng cách xa hàng trăm km? Với sự ra đời của radar RUS-2, vấn đề này càng trở nên cấp thiết. Viện NII-20 đã phát triển một hệ thống nhận diện địch ta trang bị trên máy bay, và đưa vào sản xuất tại nhà máy số 339 từ năm 1943.

Radar RUS-2 được sử dụng chủ yếu bởi lực lượng phòng không Liên Xô (PVO) và đóng vai trò là radar cảnh báo sớm. Cục pháo binh GAU có nhu cầu trang bị radar này cho các khẩu đội pháo phòng không và dẫn bắn cho các khẩu đội này. Sau khi dời về Moscow, nhóm thiết kế radar của NII-9 đã tiếp tục phát triển radar để đáp ứng nhu cầu này của PVO. Trong vòng vài tuần, một nhóm thiết kế dẫn đầu là Mikhail L. Sliozberg cùng với viện NII-20, đã phát triển radar SON (viết tắt của Stancyja Orudijnoi Navodki tiếng Nga: Станция орудийной наводки — Đài radar pháo phòng không) sử dụng magnetron bước sóng 15 cm (2 GHz).

Đầu tháng 10, thử nghiệm radar Son gần Moscow đã cho thấy tính năng của nó rất kém khi so sánh với radar quang học Puazo-3 mà Oshchepkov đã phát triển trước đó. Chương trình phát triển radar Son sau đó đã bị ngừng lại, không tiếp tục phát triển magnetron cho radar. Sau thất bại trong phát triển radar Son, viện NII-9 đã bị chuyển đi và không còn tiếp tục tham gia phát triển radar. Công việc phát triển radar được giao lại cho viện nghiên cứu NII-20.

Ngay sau khi Đức xâm lược Liên Xô, một phái đoàn các sĩ quan quân đội Liên Xô đã được cử sang Vương quốc Anh để tìm kiếm sự hỗ trợ của Anh. Từ các nguồn tin tình báo của mình, Liên Xô đã biết về hệ thống radar RDF (Range and Direction Finding) của Anh, radar dẫn bắn pháo phòng không 50 ly GL Mk II, và đã yêu cầu thử nghiệm thiết bị này để phòng thủ Moskva. Vào đầu tháng 1 năm 1942, Winston Churchill đồng ý gửi một trong những hệ thống này tới Nga, nhưng với điều kiện là nó sẽ được bảo mật hoàn toàn dưới quyền của các sĩ quan Anh và được vận hành bởi các kỹ thuật viên người Anh.

Khi con tàu chở hệ thống radar cập cảng Murmansk, một cảng biển ngoài khơi Biển Bering phía trên Vòng Bắc Cực, thì có một cơn bão mùa đông xuất hiện và việc dỡ hàng phải đợi qua đêm. Sáng hôm sau, toàn bộ hệ thống radar pháo phòng không GL Mk II - đặt trên ba chiếc xe tải - đã biến mất.

Radar của người Anh đã được đưa đến Moscow, nơi mà các kỹ sư của NII-20 và Nhà máy 339 đã kiểm tra tổng thể nó và nhóm các kỹ sư do Sliozberg dẫn đầu nhanh chóng thiết kế đảo ngược. Vào giữa tháng 2, NII-20 thông báo đã chế tạo hệ thống radar Son-2a. Về cơ bản nó là một bản sao trực tiếp của GL Mk II.

Son-2a vận hành sóng vô tuyến bước sóng 5 m (60 MHz), gồm 2 xe chở bộ phát và bộ thu tách biệt, cùng với xe thứ 3 chở máy phát điện.

Son-2a đã được đưa vào sản xuất và trang bị cho Hồng quân Liên Xô vào tháng 12 năm 1942. Đến hết chiến tranh, đã có khoảng 125 hệ thống radar này được chế tạo. Cộng thêm 200 hệ thống radar GL Mk IIIC (phiên bản do Canada cải tiến và sản xuất từ Mk II)[16] được cung cấp theo chương trình Lend-Lease, khiến tổ hợp này trở thành thiết bị radar được sử dụng nhiều nhất ở Liên Xô trong chiến tranh.

Radar trên máy bay ném bom

Có nhiều loại máy bay tiêm kích và ném bom mới đã ra đời trước khi chiến tranh diễn ra. Vladimir Petlyakov là kỹ sư trưởng đảm nhiệm phát triển loại máy bay ném bom bổ nhào hai động cơ Petlyakov Pe-2. Quá trình phát triển bị chậm trễ, và Petlyakov phải chịu trách nhiệm và bị đưa vào nhà tù Gulag dành cho các kỹ sư, tại đây, ông đã thực hiện phần lớn các mẫu thiết kế của mình.

Cuối năm 1940, Không quân Liên Xô (VVS) muốn phát triển hệ thống radar trang bị trên máy bay chiến đấu ban đêm có khả năng phát hiện máy bay đối phương. Nhóm nghiên cứu radar tại viện NII-9 tại Leningrad được giao nhiệm vụ thiết kế một loại radar trang bị trên Petlyakov Pe-2. Phần lớn các loại radar sóng vô tuyến được phát triển khi đó thường lớn và nặng nề, để có thể trang bị trên máy bay, radar mới cần phải nhỏ và nhẹ hơn. Đồng thời, kích thước của anten cũng bị giới hạn. Nhóm nghiên cứu đã phát triển radar hàng không có tên Gneis sử dụng klystron phản xạ do Nikolay Devyatkov phát triển. Radar Gneiss có bước sóng làm việc 16 cm (1,8 GHz).

Việc sơ tán viện thiết kế radar NII-9 về Moskva vào tháng 7 năm 1941 đã ảnh hưởng đến sự phát triển của loại radar mới này. Đồng thời việc klystron chưa được đưa vào sản xuất, nên việc phát triển radar bị dừng lại. Tuy nhiên, Không quân Liên Xô vẫn rất cần loại radar mới để trang bị trên Petlyakov Pe-3, một phiên bản với tải trọng lớn hơn Pe-2, mới được đưa vào sản xuất. Một số máy bay Petlyakov Pe-3 được sử dụng trong vai trò chiến đấu ban đêm, do đó rất cần đến radar. Viện thiết kế NII-20 cùng với Nhà máy số 339 đã đảm nhận việc tiếp tục phát triển và chế tạo radar Gneiss-2 và Gneiss-2M với sự chỉ đạo của kỹ sư Victor Tikhomirov.

Radar Gneiss-2 (Гнейс-2), vận hành ở bước sóng 1,5 m (200 MHz). Máy bay chiến đấu ban đêm Pe-3 là một mẫu máy bay hai người lái, với phi công và pháo thủ kiêm điện đài viên. Điện đài viên cũng sẽ đảm nhận vận hành radar Gneiss ngồi phía sau.

Anten của radar được gắn bên trên của bề mặt cánh, với anten phát ở một cánh và anten thu ở bên cánh còn lại. Thân máy bay đóng vai trò chắn sóng giữa anten phát và anten thu. Hệ thống có tầm hoạt động khoảng 4 km và có khả năng tính toán góc phương vị của mục tiêu so với đường bay của máy bay mang radar.

Gneiss-2 đã được sử dụng trong chiến đấu tại Stalingrad tháng 12 năm 1942. Đã có 230 hệ thống radar được chế tạo trong suốt chiến tranh. Một vài hệ thống được trang bị trên Yak-9Yak-3, các máy bay chiến đấu trang bị radar đã giúp Không quân Liên Xô có khả năng chiến đấu ngang ngửa với Không quân Đức. Nhà máy 339 cũng đã phát triển riêng radar Gneiss trang bị cho các máy bay Lavochkin La-5 và máy bay cường kích Ilyushin Il-2, nhưng không đưa vào sản xuất loạt.

Radar hải quân

Từ năm 1932, việc nghiên cứu radar trên tàu hải quân được thực hiện bởi Aksel Ivanovich Berg. Ông bắt đầu nghiên cứu radar tại Viện nghiên cứu tín hiệu Hải quân (NIIIS-KF), nhưng đã bị ngắt quãng bởi việc bị bắt giam năm 1937 trong cuộc Đại thanh trừng và phải trải qua 3 năm trong tù giam.

Berg được thả vào đầu năm 1940 và tiếp tục công việc nghiên cứu. Ông đã phát triển hệ thống radar cảnh báo sớm Redut-K, được trang bị trên tàu tuần dương hạng nhẹ Molotov tháng 4 năm 1941, đây cũng là tàu chiến đầu tiên của Hạm đội Hải quân Xô Viết có trang bị radar. Chỉ có một vài hệ thống radar được chế tạo và lắp đặt trên tàu chiến.

Giữa năm 1943, vai trò của radar (radiolokatsiya) cuối cùng cũng nhận được sự công nhận. Một hội đồng phát triển radar trực thuộc Ủy ban Quốc phòng được thành lập, với Berg được bầu làm phó Bộ trưởng, chịu trách nhiệm cho việc phát triển tất cả các loại radar tại Liên Xô. Trong khi đó, Berg vẫn dành sự quan tâm chủ yếu tới các hệ thống radar cho Hải quân. Về sau ông đã khai sinh ra ngành điều khiển học tại Liên Xô.

Một số loại radar Hải quân cũng được phát triển nhưng không được đưa vào chế tạo bao gồm Gyuis-1, hoạt động ở bước sóng 1,4 m công suất bức xạ 80 kW. Tiếp theo là radar Redut-K có vai trò cảnh báo sớm; nguyên mẫu radar này được lắp đặt trên tàu khu trục Gromkii năm 1944. Hai radar điều khiển bắn cũng được đưa vào chế tạo: Mars-1 cho tàu tuần dương và Mars-2 cho tàu khu trục. Cả hai được thử nghiệm ngay trước khi chiến tranh kết thúc, sau đó được đưa vào sản xuất với tên định danh Redan-1 và Redan-2.